Biển Đông: Soi ‘tứ sa’ của Trung Quốc dưới lăng kính pháp lý
(PL)- Dùng “tứ sa” để giải thích đường lưỡi bò nhưng Bắc Kinh vẫn tiếp tục đuối lý trước ánh sáng luật pháp quốc tế.
Trong bài viết kỳ trước có nhan đề “Tứ sa: Mưu đồ “thay áo mới” của Trung Quốc ở Biển Đông”, chuyên gia luật biển quốc tế Hoàng Việt (ĐH Luật TP.HCM) lý giải nguồn gốc của việc Trung Quốc (TQ) đẩy mạnh việc tuyên truyền cụm từ “tứ sa” trong yêu sách của họ.
Ví von “tứ sa” là “chiếc áo mới che đậy mưu đồ cũ - độc chiếm Biển Đông”, trong bài trả lời phỏng vấn hôm nay, chuyên gia Hoàng Việt khẳng định rằng: Trước ánh sáng của luật pháp quốc tế, lập trường của TQ về yêu sách “tứ sa” cũng sẽ thất bại về mặt pháp lý, cho dù TQ đã đệ nhiều công hàm lên Liên Hợp Quốc (LHQ).
“Tứ sa” trong công hàm của TQ
. Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về lý giải của TQ về “tứ sa” trong các công hàm mà họ gửi tổng thư ký LHQ thời gian gần đây?
+ Chuyên gia Hoàng Việt: Nếu chúng ta đọc kỹ công hàm ngày 17-4-2020 với các công hàm cách đây hơn 10 năm trước thì có thể thấy các yêu sách của TQ không khác nhau là mấy, chỉ có vài điều chỉnh về mặt câu chữ. Như tôi đã phân tích trong bài trước, đây là chiêu trò chơi chữ, với ý đồ tuyên truyền và tìm cách “ngụy trang pháp lý”, tránh né những thất bại của TQ sau khi Tòa Trọng tài 2016 đã ra phán quyết về vụ Philippines kiện TQ.
Hai Công hàm số CML/17/2009 và CML/18/2009 ngày 7-5-2009 đều cùng có đoạn: “TQ có chủ quyền không tranh cãi đối với các đảo tại Biển Đông và các vùng nước kế cận, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán tại các vùng nước liên quan cùng với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển (xem bản đồ kèm theo). Tất cả các vấn đề trên đây đã được thực hiện một cách nhất quán bởi chính quyền TQ và được sự thừa nhận rộng rãi của cộng đồng quốc tế”. Bản đồ kèm theo mà TQ để trong các công hàm chính là đường lưỡi bò.
Công hàm CML/42/2020 ngày 17-4-2020 của TQ thì viết: “TQ có chủ quyền đối với quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và các vùng nước kế cận. TQ có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. TQ có quyền lịch sử trên Biển Đông. TQ có chủ quyền đối với Nam Hải Chư Đảo và các quyền và lợi ích biển trên Biển Đông, các quyền và lợi ích này đã được thiết lập trong một thực tiễn lịch sử lâu đời. Chúng đã được duy trì liên tục bởi các chính quyền TQ và thống nhất với luật quốc tế, bao gồm Hiến chương LHQ và Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982…”.
Như vậy, dựa trên lời lẽ trong các bản công hàm nói trên, cùng với các giải thích về “đường lưỡi bò”, đặc biệt trong giải thích của hai học giả Cao Chí Quốc và Giả Bình Bình (xem lại kỳ trước) thì ta có thể thấy: TQ muốn giải thích yêu sách đường lưỡi bò theo kiểu họ có chủ quyền đối với tất cả các cấu trúc bên trong đường này - tức là “tứ sa” mà họ đang đẩy mạnh tuyên truyền. TQ cho rằng vì họ có chủ quyền đối với tất cả các thực thể bên trong đường lưỡi bò cho nên họ có quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với không chỉ các vùng nước kế cận các cấu trúc này, mà cho tới tận đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, hàm ý các thực thể này có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa kèm theo.
TQ hoàn toàn đuối lý
. Ý đồ của TQ trong việc giải thích đường lưỡi bò theo kiểu “tứ sa”, tức họ có chủ quyền đối với tất cả các thực thể bên trong đường lưỡi bò, khi soi dưới lăng kính pháp lý thì sao?
+ Lập trường của họ hoàn toàn vi phạm luật pháp quốc tế. Tương tự với cái gọi là “quyền lịch sử”, hay “đường biên giới quốc gia” khi giải thích đường lưỡi bò, yêu sách “tứ sa”, tức TQ có chủ quyền với bốn nhóm thực thể mà họ gọi là quần đảo, cũng vô lý.
Thứ nhất, không chỉ Việt Nam (VN) tuyên bố dựa trên bằng chứng thuyết phục, các nghiên cứu của học giả quốc tế đã chỉ ra yêu sách của VN tại Hoàng Sa và Trường Sa rõ ràng và thuyết phục hơn, chứ không mơ hồ và không có cơ sở pháp lý như đường lưỡi bò hay “tứ sa” của phía TQ. Ngoài ra, nếu dựa vào UNCLOS năm 1982 thì một số quốc gia khác, bao gồm Philippines hay Malaysia cũng có yêu sách ở một số thực thể ở Biển Đông. “Tứ sa” của TQ không chỉ vô lý trước lập trường của VN mà còn với nhiều quốc gia trong khu vực.
Thứ hai, theo nguyên tắc quan trọng trong luật biển quốc tế - “đất thống trị biển” - thì các cấu trúc lúc chìm lúc nổi và các bãi ngầm không thể là đối tượng để yêu sách chủ quyền được. Trong số các thực thể thuộc hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, có rất nhiều thực thể có tính chất tự nhiên như vậy. Do đó, lập luận của TQ dựa vào chủ quyền của các cấu trúc này để yêu sách các vùng nước và thềm lục địa kèm theo là vi phạm nghiêm trọng đến luật biển quốc tế nói chung và UNCLOS nói riêng.
Cuối cùng, phán quyết của Tòa Trọng tài năm 2016 vụ Philippines kiện TQ đã giải thích rõ Điều 121 của UNCLOS. Theo đó, không có thực thể nào thuộc quần đảo Trường Sa đáp ứng điều kiện là đảo. Vì vậy, đối với các thực thể đáp ứng là đá thì chỉ có thể có vùng lãnh hải 12 hải lý xung quanh và không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho đá đó. Đối với các thực thể lúc nổi lúc chìm thì không thể có vùng biển kèm theo.
Chính vì vậy, trong Công hàm số 22/HC-2020 ngày 30-3-2020 của phái đoàn thường trực VN tại LHQ đã phản đối TQ và phía VN viện dẫn UNCLOS và viết rất rõ: “… vùng biển của các cấu trúc luôn nổi tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phải được xác định phù hợp với Điều 121 (3) của công ước; các nhóm đảo tại Biển Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, không có đường cơ sở được vẽ bằng cách nối liền các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất; các bãi ngầm hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng”.
TQ chiếm hữu bất hợp pháp, không được công nhận
. Dù “tứ sa” không có cơ sở về pháp lý nhưng thực tế TQ đã chiếm hữu Hoàng Sa và một số thực thể ở Trường Sa. Phía TQ rêu rao đó là “chiếm hữu hữu hiệu” theo luật?
+ Việc xác định chủ quyền không phải là đơn giản như vậy. TQ phải chứng minh được việc xác lập chủ quyền là hợp pháp bằng biện pháp hòa bình. Tuy nhiên, việc TQ sử dụng vũ lực để chiếm đóng trái phép Hoàng Sa năm 1974 cùng một số cấu trúc tại Trường Sa từ năm 1988 trở đi là trái với quy định không sử dụng vũ lực trong Điều 2 (4) của Hiến chương LHQ và Nghị quyết 2625 năm 1970 của Đại hội đồng LHQ. Như vậy, ngay cả khi TQ duy trì chiếm hữu, xây đảo nhân tạo, đưa dân ra sinh sống, lập chính quyền quận đảo… đều phi pháp. Quan trọng không kém, việc TQ bồi lấp và xây dựng các đảo nhân tạo đã bị Tòa Trọng tài 2016 phán quyết là vi phạm nguyên tắc “thiện chí” trong luật quốc tế. Hành vi bồi lấp này cũng đã phá hủy môi trường biển một cách nghiêm trọng. Tổng hợp các hành vi vi phạm như vậy thì không một ai có thể tin rằng TQ đã chiếm hữu hữu hiệu.
. Để tuyên truyền và ngụy trang pháp lý cho “tứ sa”, trong thời gian tới ông nghĩ TQ sẽ triển khai những chiến thuật và công cụ nào?
+ Tôi cho rằng TQ vẫn sẽ duy trì các hoạt động ức hiếp, đe dọa, đánh đòn tâm lý là chính, điều mà họ đã làm trong suốt thời gian qua. Họ không dễ dàng từ bỏ dã tâm và âm mưu độc chiếm Biển Đông. Họ cũng sẽ đẩy mạnh hoạt động trên thực địa để khiến các quốc gia bị xâm phạm có cảm giác quen dần đi với “cách hành xử kiểu TQ”, trong đó TQ vẫn đảm bảo duy trì chiến thuật mà các nhà nghiên cứu phương Tây gọi là “chiến thuật vùng xám”.
Theo đó, TQ luôn đe dọa khả năng chiến tranh nhưng thực sự họ sử dụng các hành vi ở dưới ngưỡng của chiến tranh. Trên thực địa, TQ đẩy mạnh các đoàn tàu cảnh sát biển và dân quân biển (tàu vũ trang ngụy trang tàu cá) nhằm mục tiêu gây rối, xua đuổi ngư dân và các doanh nghiệp khai thác kinh tế của các nước láng giềng. Các nhóm tàu này sẽ được hỗ trợ từ lực lượng hải quân TQ ở vòng ngoài, đe dọa đối thủ từ xa. Bắc Kinh muốn chính quyền và người dân nước khác phải ngại, lo sợ, im lặng và rồi từ bỏ vùng biển của họ. Dã tâm này được TQ thực hiện theo cách tiếp cận “toàn chính quyền”, tức từ các cơ quan chức năng đến giới truyền thông, học giả, ngư dân TQ đều thống nhất hành động xâm chiếm. Về giải pháp ứng phó, tôi sẽ nói rõ hơn ở bài sau.
. Xin cám ơn ông.
________________________________
Kỳ cuối: “Tứ sa”: Trung Quốc bóp méo lịch sử để đòi yêu sách Biển Đông